Đo thời gian chạy là một trong những cách để đánh giá hiệu quả của một thuật toán. Công việc nghe có vẻ khó khăn nhưng thực tế, với các hàm, kiểu dữ liệu được định nghĩa trong thư viện time.h
của C (trong C++ có thể dùng cả time.h
hoặc ctime
), ta có thể đo thời gian chạy của một đoạn chương trình bất kỳ một cách dễ dàng.
Cả tham chiếu (reference) và con trỏ (pointer) đều thuộc kiểu địa chỉ trong C++ và thường được dùng để truy cập gián tiếp đến các đối tượng khác. Tuy nhiên chúng cũng có sự khác nhau cơ bản các bạn có thể tham khảo dưới đây.
Đúng như tiêu đề, menu này rất đơn giản cho phép người dùng lựa chọn tính năng của chương trình trong màn hình Console và có thể áp dụng vào những game cơ bản. Bạn chỉ cần có kiến thức về vòng lặp do...while
, cấu trúc điều kiện switch..case
để làm menu này. Cách làm sẽ được minh họa bằng C++.
Selection Sort là một thuật toán sắp xếp tương đối dễ hiểu. Ý tưởng chính vẫn là đổi chỗ những cặp nghịch thế, tuy nhiên cái hay là ở chỗ Selection Sort tìm vị trí chứa phần tử nhỏ nhất để đổi chỗ với phần tử đang xét chứ không đổi tất cả các cặp nghịch thế như Bubble Sort hay Interchange Sort.
Bubble Sort là một thuật toán sắp xếp kiểu so sánh rất đơn giản và dễ hiểu. Ý tưởng chính của thuật toán này là bắt cặp tất cả các phần tử trong dãy cần sắp xếp và đổi chỗ hai phần tử trong cặp nếu chúng nghịch thế (không thỏa điều kiện thứ tự).
Để sắp xếp một dãy, có nhiều cách làm khác nhau. Trong bài viết này mình sẽ nói về Interchange Sort, hay còn gọi là thuật toán sắp xếp đổi chỗ trực tiếp.